Tàu chiến Quy ước đặt tên tàu của Nhật

Quy ước sơ khai

Khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thành lập, Bộ Hải quân gửi tên tàu tiềm năng cho Thiên Hoàng để phê duyệt. Trong những năm đầu, những con tàu thường được đóng góp bởi Mạc phủ hoặc những gia tộc Nhật Bản và các tên tộc được giữ lại.

Từ năm 1891, thủ tục đã được thay đổi do những thay đổi trong cơ cấu chính phủ. Hai tên tàu sẽ được Bộ trưởng bộ Hải quân đệ trình lên Viên thị thần, người sau đó đã trình bày các lựa chọn cho Thiên Hoàng. Thiên Hoàng có thể chọn một trong những tên được đề xuất hoặc một trong những ý tưởng của riêng mình.

Các tàu chiếm được trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật đầu tiên giữ nguyên tên ban đầu của chúng nhưng với cách phát âm tiếng Nhật. Ví dụ, thiết giáp hạm Trung Quốc Chen Yuan trở thành Chin'en khi phục vụ Nhật Bản.

Năm 1876, Bộ trưởng bộ Hải quân được trao quyền chọn tên của những chiếc tàu phóng lôi mà không cần sự chấp thuận của hoàng tộc. Năm 1902, quyền được đặt tên cho các tàu khu trục cũng được giao cho Bộ trưởng Bộ Hải quân.

Năm 1895, một đề xuất đã được đưa ra bởi Bộ trưởng bộ Hải quân trong một nỗ lực để thiết lập một số tiêu chuẩn. Ông đề xuất rằng thiết giáp hạm và tàu tuần dương được đặt tên cho các tỉnh hoặc đền thờ bảo vệ Nhật Bản, tên của các tàu chiến khác được chọn từ tên của nước Nhật hoặc các tỉnh.

Các tàu chiếm được trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật được đổi tên thành tên Nhật. Một số tàu được đặt tên liên quan đến nơi chúng bị bắt hoặc một số khía cạnh khác của chiến tranh, chẳng hạn như tháng bắt giữ. Một số tàu của Nga được đặt tên Nhật Bản giống với tên tiếng Nga ban đầu của chúng (ví dụ: Angara trở thành Anegawa).

Năm 1921, Bộ trưởng bộ Hải quân được trao quyền chỉ định tên cho tất cả các tàu ngoại trừ thiết giáp hạm, thiết giáp-tuần dươngtuần dương hạm. Trong mọi trường hợp Hải quân phải báo cáo tên mới cho Thiên Hoàng ngay lập tức.

Thiết lập quy ước đặt tên tàu năm 1905

Vào ngày 23 tháng 4 năm 1905, Bộ trưởng bộ Hải quân Yamamoto Gonbee đã báo cáo cho ngai vàng về một tiêu chuẩn đặt tên tàu mới. Nó được quyết định vào ngày 1 tháng 8 năm 1905.

Tuy nhiên, tàu tuần dương hạng hai, hạng ba đổi qua sử dụng tên sông vì việc đặt tên trở nên quá phức tạp.

Nó đã trải qua một số thay đổi để cho các thể loại tên được đưa ra ở đây. Tuy nhiên, nếu tên được thừa kế tên của một con tàu trước thì nó có thể không theo hệ thống sau đây.

  • Hàng không mẫu hạm - tên đặc biệt [1] (Nhiều trong số chúng là tên thừ hưởng từ tên tàu chiến từ thời Bakumatsuthời Minh Trị.)[2]
    • Hàng không mẫu hạm hạm đội: bắt đầu bằng chữ Ryū (龍, Long), Tsuru (Kaku) (鶴, Hạc) hoặc Ōtori (Hō) (鳳, Phụng) trước/sau tên của nó
    • Tàu chuyển thể: đặt chữ Ōtori (Hō) (鳳, Phụng) ở phía sau
      • Zuihō (瑞鳳) Thụy Phụng
      • Chitose (千歳, Thiên Tuế) và Chiyoda (千代田, Thiên Đại Điền) không bị đổi tên theo biểu quyết của thủy thủ đoàn.[cần dẫn nguồn].
    • Tàu buôn chuyển thể; đặt chữ Taka (Yō) (鷹, Ưng) ở phía sau
    • Và sau ngày 4 tháng 6 năm 1943 - thêm tỉnh và núi
  • Thiết giáp hạm, bao gồm cả tàu chuyển thể thành hàng không mẫu hạm - tỉnh và tên khác của nước Nhật.
  • Thiết giáp tuần dương và tuần dương hạng nặng, bao gồm cả tàu chuyển chuyển thành hàng không mẫu hạm - núi
  • Tuần dương hạng nhẹ, kể cả tàu được chuyển hạng thành tuần dương hạng nặng - tên sông
  • Tuần dương huấn luyện (sau năm 1940) — Đền Shinto 
  • Khu trục hạm
    • Cho đến ngày 27 tháng 8 năm 1912 - thời tiết, gió, thủy triều, dòng chảy, sóng, mặt trăng, mùa, hiện tượng tự nhiên khác, thực vật
    • Sau ngày 27 tháng 8 năm 1912
      • Các tàu khu trục hạng nhất (trọng tải hơn 1000 tấn) - thời tiết, gió, thủy triều, dòng chảy, sóng, mặt trăng, mùa, hiện tượng tự nhiên khác
      • Các tàu khu trục hạng hai (trọng tải trên 600 tấn nhưng ít hơn 1.000 tấn) - cây cối
    • Từ ngày 12 tháng 10 năm 1921 - ngày 31 tháng 7 năm 1928 theo chương trình hạm đội tám-tám
      • Khu trục hạng Nhất (Lớp Kamikaze, Lớp Mutsuki, Lớp Fubuki) số lẻ từ '1' đến '27', số liên tiếp sau  '28'
        • Tàu khu trục số 1 (第1駆逐艦, Đệ nhất Khu trục hạm), đổi tên thành Kamikaze(Thần Phong) vào ngày 1 tháng 8 năm 1928
        • Tàu khu trục số 46 (第46号駆逐艦, Đệ tứ thập lục Khu trục hạm), đổi tên thành Shikinami(Phu Ba) vào ngày 6 tháng 8 năm 1928
      • Khu trục hạng Hai (Lớp Wakatake) — số chẵn từ '2' đến '26'
        • Khu trục số 18 (第18駆逐艦, Đệ thập bát Khu trục hạm), đổi tên thành Karukaya(Cây Kaya) vào ngày 1 tháng 8 năm 1928
    • Sau ngày 4 tháng 6 năm 1943
      • Khu trục kiểu 'A' — Mưa, thủy triều, gió
        • Akisame (秋雨) Thu Vũ
        • Takashio (高潮) Cao triều
        • Shimakaze (島風) Đảo Phong
      • Khu trục kiểu 'B' — gió, mặt trăng, mây, mùa
        • Yamazuki (山月) Sơn Nguyệt
        • Yukigumo (雪雲) Tuyết Vân
        • Hae (南風) Gió nam theo giọng Okinawa, đọc theo tiếng Nhật phổ thông là Minamikaze(Nam Phong)
        • Hayaharu (早春) Tảo Xuân
      • Khu trục kiểu 'D' — cây cối
        • Matsu (松, Tùng) Cây thông
        • Nashi (梨, Lê) Lê Nhật
        • Wakakusa (若草, Nhược Thảo) Cỏ xuân (Nhật?)
  • Tàu phóng lôi
    • Cho đến ngày 15 tháng 1 năm 1924 
      • Tàu phóng ngư lôi hạng nhất (trên 120 tấn) - chim
      • Tàu phóng ngư lôi hạng hai hạng ba(dưới 120 tấn) —đánh số liên tiếp từ '1'
    • Sau ngày 30 tháng 5 năm 1931 — Chim
      • Chidori (千鳥, Thiên Điểu) Chim choi choi
      • Kiji (雉, Trĩ) Gà lôi
  • Tàu ngầm
    • Cho đến ngày 31 tháng 10 năm 1924 -đánh số liên tiếp từ '1'
    • Sau ngày 1 tháng 11 năm 1924
      • Tàu ngầm hạng nhất (hơn 1000 tấn) -'I' (伊) rồi đánh số liên tiếp bắt đầu từ '1', 'I' là chữ cái đầu tiên trong bài thơ Iroha
        • I-1 (伊号第1潜水艦, Y hiệu Đệ nhất Tiềm thủy hạm) I-Gō Dai-1 sensuikan
        • I-52 (伊号第52潜水艦, Y hiệu Đệ ngũ thập nhị Tiềm thủy hạm) I-Gō Dai-52 sensuikan
      • Tàu ngầm hạng hai (hơn 500 tấn dưới 1000 tấn) — 'Ro' (呂) rồi đánh số liên tiếp bắt đầu từ '1',  'Ro' chữ cái thứ hai trong bài thơ Iroha
        • Ro-1 (呂号第1潜水艦, Lữ hiệu Đệ nhất Tiềm thủy hạm) Ro-Gō Dai-1 sensuikan
        • Ro-51 (呂号第51潜水艦, Lữ hiệu Đệ ngũ thập nhất Tiềm thủy hạm) Ro-Gō Dai-51 sensuikan
      • Tàu ngầm hạng ba (dưới 500 tấn) —'Ha' (波) rồi đánh số liên tiếp bắt đầu từ '1',  'Ha' chữ cái thứ ba trong bài thơ Iroha. Từ ngàu 30 tháng 5 năm 1931 Tàu ngầm hạng ba được tích hợp lại với tàu ngầm hạng hai.
        • Ha-1 (波号第1潜水艦, Ba hiệu Đệ nhất Tiềm thủy hạm) Ha-Gō Dai-1 sensuikan
        • Ha-9 (波号第9潜水艦, Ba hiệu Đệ cửu Tiềm thủy hạm) Ha-Gō Dai-9 sensuikan
  • Tàu pháo — danh lam thắng cảnh và địa danh lịch sử
  • Tàu phòng vệ biển
    • Cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1942 - Đảo
    • Sau ngày 1 tháng 7 năm 1942
  • Tàu hỗ trợ tàu ngầm — cá voi
  • Tàu phóng thủy phi cơ — danh từ trừu tượng, từ thành ngữ, tàu thành tích đáng chú ý trong chiến tranh trước đây
    • Chitose (千歳, Thiên Tuế) Nghìn năm
    • Mizuho (瑞穂, Thuỵ Tuệ) một tên khác của Nhật Bản,theo nghĩa đen là "Vùng đất của các cây gạo mạnh mẽ"
    • Nisshin (日進, Nhật Tấn) thừa hưởng tên từ tàu Nisshin
    • Akitsushima (秋津州, Thâu Tân Châu) thừa hưởng tên từ tàu Akitsushima
  • Tàu rải mìn
  • Tàu đặt lưới
    • là tàu chiến (trang bị gia huy Hoàng gia trên mũi) 
      • Cho đến ngày 3 tháng 6 năm 1943 - đặt chữ ở phía sau Taka(鷹, chim ưng) 
      • Và sau ngày 4 tháng 6 năm 1943 - chim
        • Asadori (朝鳥) Triêu Điểu
    • thuyền đặt lưới - chim
  • Tàu phụ trợ
    • Tàu chở than, tàu chở dầu, tàu phá băng, tàu chở hàng, tàu sửa chữa, tàu mục tiêu tự hành, tàu vũ khí - mũi, điểm, eo biển, kênh, vịnh, cảng
    • Tàu quét mìn, tàu đổ bộ, tàu tuần tra, tàu phóng lôi động cơ, tàu đuổi tàu ngầm - tên đánh số
      • Tàu quét mìn số 1 (第1号掃海艇, Đệ nhất Tảo hải đĩnh)
      • Tàu đổ bộ số 1 (第1号輸送艦, Đệ nhất hiệu Du tống hạm)
      • Tàu tuần tra số 1 (第1号哨戒艇, Đệ nhất hiệu Tiêu giới đĩnh)
      • Tàu phóng lôi động cơ số 1 (第1号魚雷艇, Đệ nhất hiệu Ngư lôi đĩnh)
      • Tàu đuổi tàu ngầm số 1 (第1号駆潜艇, Đệ nhất Khu tiềm đĩnh)
  • Tàu khác
    • Tàu chở hàng, tàu cứu hộ - cầu hoặc trạm trên tuyến đường trục
    • Tàu sửa chữa - Eo biển, eo đất
      • Hayase (早瀬, Tảo Lai) Hayase-no-Seto là eo nước giữa đảo Kurahashi và đảo Higashi-Nōmi
      • Hitonose (飛渡瀬, Phi Độ Lai) Hitonose là eo đất giữa đảo Etajima và đảo Nōmi
    • Và tấn tàu cứu hộ và tàu kéo hơn 600, và sau ngày 22 tháng 1 năm 1937 - tên liên quan tới các căn cứ hải quân (bãi neo đậu, tên địa điểm, đảo)
    • Tàu còn lại — Tên đánh số

Sau thế chiến

Trước khi cuộc chiến kết thúc tên tàu Nhật Bản được viết bằng chữ kanji; sau khi kết thúc chiến tranh, truyền thống này đã bị bỏ thay bằng dùng chữ hiragana để tách biệt hình tượng của Lực lượng phòng vệ biển hải khỏi hải quân cũ.